Kinh tế học : Vì sao cần nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế?

 
"Những tư tưởng đúng hay sai của các nhà kinh tế học và chính trị học có một tầm quan trọng lớn hơn điều người ta thường tưởng. Nói đúng ra, thế giới gần nhưng chỉ được hướng dẫn bởi những tư tưởng đó. Những người hành động nào tưởng mình thoát khỏi những ảnh hưởng của các học thuyết thường là những kẻ nô lệ của một vài nhà kinh tế học của quá khứ.Những người cầm quyền sáng suốt tự cho mình noi theo những tiếng nói thượng giới thật ra đều chắt lọc từ những không tưởng nảy sinh trước đó vài năm trong đầu óc của một nhà soạn giáo án nào đó“. John Maynard Keynes, Lý luận chung về sử dụng lợi tức và tiền tệ, 1936. 
.
Các trường phái kinh tế chính, các lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế hiện đại nói về những vấn đề gì? Nói như thế nào? Do ai, từ đâu mà có? Và có liên quan ra sao với những giai đoạn trong quá khứ ?
        Để trả lời cho những câu hỏi trên cũng như để có sự nhìn nhận đúng đắn với các chính sách kinh tế, tôi và các bạn- những người quan tâm đến lĩnh vực kinh tế nói chung và những nhà kinh tế học nói riêng- sẽ từng bước tìm hiểu có hệ thống về các học thuyết kinh tế trong lịch sử.
Mỗi học thuyết, chúng ta sẽ không dừng lại quá lâu nhưng vẫn đảm bảo đánh giá được ý nghĩa của nó với thực tiễn.
                                               
         Trước khi bước vào chặng đường thú vị kế tiếp, chúng ta hãy cùng nghe tâm sự của hai bậc tiền bối nhé!
“Lịch sử kinh tế học chứng tỏ rằng các nhà kinh tế học. Giống như mọi người khác, đều tưởng bong bóng là đèn lồng và tưởng mình nắm được chân lý, nhưng thật ra tất cả những gì họ có đều dẫn tới cả một loạt những định nghĩa hay những phán xét phức tạp về giá trị được ngụy trang thành những quy tắc khoa học. Không có cách trình bày nào khác hơn việc nghiên cứu lịch sử kinh tế học […], nó đem lại phòng thí nghiệm rộng lớn nhất để có được một sự khiêm nhường cần thiết về phương pháp luận đối với việc tìm hiểu những thành tựu thật sự của kinh tế học. Ngoài ra, đó còn là một phòng thí nghiệm mà mỗi nhà kinh tế học mang theo mình, dù có ý thức hay không […]. Cần hiểu rọ những gì mình thừa kế được còn hơn là tưởng tượng ra một di sản bị giấu kín ở một góc tối nào đó và ở một thứ tiếng nước ngoài nào đó”. Tư tưởng kinh tế, M. Blaug, Economica,1987.

Tôi có thói quen dẫn lời Newton nói rằng nếu ông có thể nhìn thấy xa hơn những người khác, thì đó là vì ông đứng trên vai của những vị khổng lồ. Nếu Newton đã có thể nói như vậy vào thế kỉ XVII, thì chắc chắn nhà kinh tế học hôm nay cũng chỉ có thể tự coi mình đứng ở vị trí ấy, cho dù tầm hiểu biết cá nhân của mình rộng lớn tới mức nào. Thật ra, anh ta là kẻ kế thừa của một số nhà tư tưởng thiên tài được thừa nhận, như Smith, Ricardo, Mill, Marx, Walras, Wicksell, Marshall và Keynes, cũng như hàng trăm người thông minh, cả nam lẫn nữ, đã tạo ra một công trình quý giá. Trên thực tế, nếu các vị khổng lồ của kinh tế học đã tự mình đứng lên trên vai những người tiền bối của họ, thì nhà kinh tế học hôm nay cũng đứng trên đỉnh cao của một kim tự tháp mênh mông của những tài năng”. Vinh quang và suy thoái của các dân tộc, Mancur Olson, 1983.